Thứ Năm, 31 tháng 12, 2015

Năm mới 01.01.2016


Nhật Trang thân mến chúc các anh chị, các bạn một năm mới sức khỏe, hạnh phúc, thành công.
Mong sao thế giới chúng ta đang sống bớt đi chiến tranh hận thù, môi trường bớt bị hủy hoại, thiên tai dịch bệnh và nghèo đói...




Thứ Bảy, 19 tháng 12, 2015

Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2015

THẾ GIỚI CỦA NHỮNG THỬ THÁCH


Một thế giới đầy thử thách nhân loại, nơi chúng ta đang sống, hằng ngày tiếp nhận nguồn năng lượng tiêu cực, độc ác, không thể né tránh, thoát ra khỏi. Chúng ta buộc phải sống trong một thế giới đầy những chuỗi thử thách không ngừng...
Khởi nguyên tự thân tiến bộ Tạo Hóa buộc con người hiện đại, với những tiến bộ vật chất vượt bậc, ngày nay phải tự mình tìm kiếm lối thoát trong một thế giới ngập đầy bởi những sự ích kỷ, tham lam, đố kỵ, chiếm hữu, độc ác, giả dối, bởi thói ghen ăn tức ở, bởi những đồng tiền bẩn thỉu ... Một thế giới mang khả năng của một Địa ngục. Thông điệp dứt khoát của Tạo Hóa, để con người trở nên cao cả trong sạch không còn cách nào hơn tự thân loài người phải đấu tranh với cái ác nơi mà THẾ GIỚI hiện tại, bao gồm thế giới nội tâm từng người, tồn tại được mặc định như một “THẾ GIỚI CỦA THỬ THÁCH” hay "THẾ GIỚI PHẢI CHỊU SỰ THỬ THÁCH CỦA CÁI ÁC". Loài người hủy diệt lẫn nhau, hận thù, chết chóc, chiến tranh, phát truyền năng lượng tiêu cực hủy diệt hay nâng đỡ, yêu thương, bao dung, cùng chia sẻ tài nguyên, phát truyền năng lượng tích cực tốt lành là do chính loài người quyết định. Ký ức sâu thẵm về những cái Ác cần được con người cảm thấy nặng nề, khó chịu, tủi hổ, nhắc nhở những đau buồn về tính khốc liệt của nó để không bao giờ khởi nguyên cái Ác thâm nhập trở lại tâm thức...
Đời sau con cháu chúng ta tốt đẹp hay mãi chìm đắm trong “THẾ GIỚI CỦA THỬ THÁCH” này chính là do con người quyết định, ngay bây giờ tại trái đất này nơi chúng ta hân hạnh được sống.
viết dưới vầng trăng khuyết đêm 15.11.2015 Nhật Trang.

Thứ Tư, 4 tháng 11, 2015

NAM QUỐC ANH HÙNG CHI HỮU CHỦ


NAM QUỐC ANH HÙNG CHI HỮU CHỦ
VUA QUANG TRUNG - NGUYỄN HUỆ



DI CHÚC CỦA ĐỨC VUA TRẦN NHÂN TÔNG (1258 - 1308)





DI CHÚC CỦA ĐỨC VUA TRẦN NHÂN TÔNG (1258 - 1308)


“Các ngươi chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa nước Tàu. Chớ coi thường chuyện vụn vặt nảy ra trên biên ải.

Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới quy ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích.

Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn:

“ MỘT TẤC ĐẤT CỦA TIỀN NHÂN ĐỂ LẠI, CŨNG KHÔNG ĐƯỢC ĐỂ LỌT VÀO TAY KẺ KHÁC ”.

TA CŨNG ĐỂ LỜI NHẮN NHỦ ĐÓ NHƯ MỘT LỜI DI CHÚC CHO MUÔN ĐỜI CON CHÁU ”.




******
Các Người chớ quên !
Nghe lời Ta dạy
Chính nước lớn
Làm những điều bậy bạ
TRÁI ĐẠO LÀM NGƯỜI
Bất nghĩa bất nhân
Ỷ nước lớn
Tự cho mình cái quyền ăn nói !
Nói một đường làm một nẻo ! Vô luân !
Chớ xem thường chuyện nhỏ ngoài biên ải.
Chuyện vụn vặt thành lớn chuyện: NGOẠI XÂM !
Họa Trung Hoa !
Tự lâu đời truyền kiếp !
Kiếm cớ này bày chuyện nọ ! TÀ MA !
Không tôn trọng biên cương theo quy ước
Tranh chấp hoài ! Không thôn tính được ta
Chúng gậm nhấm Sơn Hà và Hải Đảo
Chớ xem thường chuyện vụn vặt Chí Nguy !
Gặm nhấm dần
Giang Sơn ta nhỏ lại
Tổ ĐẠI BÀNG thành cái tổ chim di
Các việc trên khiến Ta đây nghĩ tới
Canh cánh bên lòng “ ĐẠI SỰ QUỐC GIA “!
Chúng kiếm cớ xua quân qua ĐẠI VIỆT
Biến nước ta thành quận huyện Trung Hoa !
VẬY NÊN
CÁC NGƯỜI PHẢI NHỚ LỜI TA DẶN
KHÔNG ĐỂ MẤT
MỘT TẤC ĐẤT CỦA TIỀN NHÂN ĐỂ LẠI
HÃY ĐỀ PHÒNG
QUÂN ĐẠI HÁN TRUNG HOA !
LỜI NHẮN NHỦ
CŨNG LÀ LỜI DI CHÚC
CHO MUÔN ĐỜI CON CHÁU NƯỚC NAM TA....."

Thứ Năm, 29 tháng 10, 2015

Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2015

trộm...





ánh hồng tơ tưởng thong dong đợi
ngan ngát hương quỳnh đón nắng mơi
len lén ốc sên ven bờ vách
ngờ nghệch lay lay trộm hương đời...

nhattrang - 10.2015

Thứ Năm, 8 tháng 10, 2015

Mầm non




Mầm non cây Muồng Ràng Ràng
Tên Viêt Nam: MUỒNG RÀNG RÀNG
Tên khoa học: Adenanthera Microsperma; Họ : Đậu; Fabaceae; Bộ: Fabales; Lớp (nhóm); Cây gỗ lớn

Mầm non của cây Bồ Kết


Thứ Ba, 6 tháng 10, 2015

chồi non



ngày mới chồi non, chỉnh trang ngày cũ
mùa nắng không mưa, ngày mưa có nắng
lữ khách dừng chân, thắm màu hy vọng
non xanh trải rộng, bạt ngàn mênh mông... 






nhattrang - tháng 10.2015

Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2015

ví ta ngọn cỏ...








có lúc ta ví ta ngọn cỏ
rạp mình trong bão táp phong ba
nghe đất vang sâu xa nguồn cội
nghe mạch đời bất tận giữa cơn mê...

có lúc ta ví ta ngọn cỏ
kiêu hãnh vươn núi cũng như không
giữa mây trời cất tiếng hoan ca
phong sương sá bão giông cũng mặc...







cùng thời gian cỏ với ta đi mãi
nặng nhẹ hành trang tỉnh tỉnh mê mê...
cũng đến lúc mê mê tỉnh tỉnh
biết rằng ta 
chẳng phải cỏ 
cỏ chẳng phải ta...
cũng có lúc tỉnh mê mê tỉnh
biết rằng ta 
hạt giống của trời
gieo từ thưở ... vô chung vô thủy... 


Nhật Trang
03.10.2015 

Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2015

VÀI Ý KIẾN VỀ ĐỀ TÀI "TRUNG ĐẠO"



VÀI Ý KIẾN VỀ ĐỀ TÀI "TRUNG ĐẠO"
Nguyên Phước (BS Trịnh Đình Hỷ)
22.9.2015

1) Đầu tiên, theo tôi giáo lý đạo Phật không phải là một hệ thống triết lý đồng nhất như một khối, mà gồm nhiều dòng tư tưởng đến bồi đắp thêm vào giáo lý đầu tiên của đức Phật Thích Ca, trong một thời gian kéo dài hơn 1300 năm, đến khi mà các tông phái chính của Đại Thừa đã xuất hiện đầy đủ (đó là chưa kể những đóng góp của các vị thiền sư, tăng ni, cư sĩ cho đến tận bây giờ).
Dĩ nhiên, những dòng tư tưởng này đến với dòng thời gian, dòng trước ảnh hưởng lên dòng sau, và dòng sau phản ứng lại dòng trước.
Như vậy, cũng như trong một dòng sông, nước sông trộn lẫn với nhau nhưng các nguồn nước rõ ràng khác biệt, « hòa nhưng bất đồng »…
2) Trong bối cảnh xã hội, văn hóa tại Ấn Độ vào thế kỷ VI-V trước CN, đạo Phật xuất hiện như một con đường không chính thống (nastika), có thể nói là phản kháng, đối với các đạo chính thống (astika), như Bà La Môn và các đạo công nhận Kinh Veda.
Trong khi các đạo đó chủ trương hòa đồng tiểu ngã (atman) với Đại Ngã (brahman, chân lý tuyệt đối, tối hậu) để giải thoát khỏi luân hồi, thì đức Phật chủ trương một con đường khác hẳn, một con đường thực tiễn, đặt trung tâm điểm vào con người, gạt bỏ những khái niệm siêu hình và chỉ đặt trọng tâm vào phương pháp diệt khổ. « Cũng như nước các đại dương chỉ có một vị mặn, giáo lý này chỉ có một vị, đó là vị giải thoát » (Kinh Cullavaga).
Ngài chỉ quan tâm đến hiện tượng, đặc biệt hiện tượng tâm lý (đạo Phật do đó được xem là một hiện tượng học, phénoménologie), chứ không đặt vấn đề bản thể (ontologie), siêu hình (métaphysique), như đạo Bà La Môn và Đại Thừa sau này.
Chẳng hạn như về Vô Ngã, bài thuyết pháp thứ nhì của ngài được gọi là Vô Ngã tướng (pali: anatta-lakkhana), nghĩa không có cái tướng của cái ta: « Cái này không phải là ta, cái này không phải của ta… ». Đừng tưởng lầm đó là ta, đó là của ta, mà ôm lấy nó, chấp lấy nó.
Ngài không nói là « không có ta », ngài không phủ nhận cái « ta » bản thể, nhưng không đề cập đến nó.
Khi sa môn Vacchagotta hỏi ngài hai lần là « có ngã hay không có ngã », thì ngài giữ im lặng. Do đó, theo tỳ kheo Thanissaro, nên hiểu bài giảng Vô Ngã tướng là « not self » thay vì « no self ». Khoa học thần kinh ngày hôm nay cũng chứng minh (qua hình ảnh MRI chức năng chẳng hạn) là có những vùng của não được kích hoạt khi người ta ý thức, quan tâm về cái “ta” (self-awareness), và điều đáng ngạc nhiên nhất là thiền định làm quên hẳn ý thức về cái “ta” đó…
Đức Phật không quan tâm đến bản thể của cái ta (l’essence de l’ego), nhưng về hiện tượng (tâm lý) của con người chấp vào cái ta. Ngài giảng Vô Ngã tướng là để khuyên con người bớt chấp vào cái ta, vì tưởng lầm thân này là ta, vật này là của ta…
Chúng ta nên để ý rằng từ lakkhana còn gặp trong tilakkhana (Tam Pháp Ấn), là 3 cái tướng, 3 cái vẻ ngoài của sự vật (les 3 marques de l’existence): vô thường, vô ngã và khổ. Cả 3 đều thuộc thế giới hiện tượng.
Hơn nữa, đạo Phật nguồn gốc (hay nguyên thủy, với chữ n nhỏ) có một kích thước đạo đức (éthique) không thể nào phủ nhận được, mặc dù đạo đức Phật giáo rất là thực tiễn và uyển chuyển: hành động ác hay xấu (akusala) được định nghĩa là gây khổ đau; hành động thiện hay lành (kusala) là chống lại khổ đau.
Và vì đạo Phật hướng về hành động (diệt khổ, giải thoát), cho nên không thể nào tránh được nhị biên.
Đọc Kinh Pali, chúng ta thấy rõ sự phân biệt rành mạch giữa bên này và bên kia : khổ/diệt khổ, phiền não/Niết Bàn, mê/tỉnh, thiện/ác, trí/ngu, buông lung/điều chế, tu/không tu… Kinh Pháp Cú (Dhammapada) trình bầy một cách sáng sủa lời Phật dạy:
- “Vui cười sao được, khi lửa cháy khắp nơi? Bóng tối bủa vây, sao không đi tìm ánh sáng?”
- “Không làm các việc ác, thành tựu những việc lành. Giữa tâm ý thanh tịnh, ấy lời chư Phật dạy.”
Nói tóm lại đức Phật gạt bỏ tất cả những câu hỏi triết lý siêu hình, về bản thể, dù là của con người, sự vật hay vũ trụ. Ngài chỉ giữ im lặng (Mâu Ni, muni có nghĩa là trầm lặng), hoặc gạt bỏ đi bằng một ẩn dụ (như câu chuyện mũi tên độc), trước 14 câu hỏi siêu hình không thể trả lời được.
3) Về Trung đạo, đức Phật chỉ nói đến Trung đạo trong lời mở đầu của bài thuyết pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển, tức là Kinh Chuyển Pháp Luân. Ngài khuyên các đệ tử nên tránh hai con đường cực đoan, dục lạc và khổ hạnh, mà chính ngài đã trải nghiệm, để đi trên con đường chính giữa (le juste milieu) hay Trung dung của đạo Khổng. Thông điệp chính trong bài này là Tứ Diệu Đế, là Bát Chánh Đạo, chứ không phải là Trung đạo. Không có gì là « vượt qua hai bên », « bất nhị » như trong tư tưởng Đại Thừa sau này xuất hiện, ít ra 400 năm sau.
4) Trong kinh điển Pali, chứa đựng cốt tủy của đạo Phật nguồn gốc, người ta không bao giờ gặp những khái niệm như Tánh Không (shunyata), Chân Như hay Như Thị (tathata), Phật tánh (buddhata), Như Lai tạng (tathagata-garbha) A Lại Da thức (alaya-vijñana)… Hiển nhiên đó là những tư tưởng Đại Thừa, xuất hiện từ khoảng giữa thế kỷ thứ 1 trước CN và thế kỷ thứ 1 sau CN, qua những bộ Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (đến thế kỷ thứ 5 sau CN mới hoàn chỉnh, theo nhà Phật học Edward Conze), trong đó có Tâm Kinh và Kinh Kim Cương, và vô số Kinh khác, cùng những bộ Luận của các ngài Mã Minh (Ashvagosha), Long Thọ (Nagarjuna), Vô Trước (Asanga), Thế Thân (Vasubandhu), v.v.
Sự đóng góp của ngài Long Thọ nổi bật hơn cả, và theo nhà Phật học André Bareau là "một cuộc cách mạng triết học lớn của Ðại Thừa". Là tác giả của “Trung Quán Luận” (đã được dịch bởi HT Thiện Siêu) và “Đại Trí Độ Luận”, ngài còn là một nhà diễn giải của bộ Kinh Bát Nhã và người dẫn đầu phái Trung Quán (Madhyamaka) và Tánh Không phái (Shunyavada). Ảnh hưởng của ngài lớn đến nỗi các nhà Phật học Tây phương gọi Trung Quán là “Tân phái Trí tuệ” (Nouvelle Ecole de Sagesse), đối lại với “Cổ phái Trí tuệ” (Ancienne Ecole de Sagesse) là Thượng Toạ Bộ (Sthaviravada); Đại thừa cho rằng đó là cuộc Chuyển Pháp Luân lần thứ nhì và coi ngài như một vị Bồ Tát, Thiền tông gọi ngài là vị tổ Thiền thứ 14…
Để giải thích những điểm mâu thuẫn, trái ngược với nhau giữa giáo lý nguồn gốc và giáo lý Bát Nhã (như trong bài Tâm Kinh, về ngũ uẩn, tứ đế, chứng đắc, vô minh, Niết Bàn…) ngài Long Thọ phân biệt hai sự thật, sự thật tương đối (samvriti-satya) và tuyệt đối (paramartha-satya): chẳng hạn như “ngũ uẩn, tứ đế, vô minh, chứng đắc, vô thường” có thể hiểu là sự thật tương đối, và “vô ngã, duyên khởi” là sự thật tuyệt đối.
Có thể nói rằng ngài đã bắc một chiếc cầu giữa giáo lý đạo Phật nguyên thủy và Đại Thừa.
5) Tuy nhiên, theo tôi, cần phải xét lại đâu là triết lý Trung Quán của ngài Long Thọ, đâu là những tư tưởng Đại Thừa không phải là của ngài.
Đầu tiên về khái niệm « bất nhị », phải phân biệt “nhị biên” và “nhị nguyên”, thường được xem là giống nhau:
- “nhị biên” (dualité) là hai bên, như có/không, tốt/xấu, sáng/tối, yêu/ghét, v.v., thuộc về hiện tượng. Sự phân biệt nhị biên là kiến chấp bình thường của con người, cho nên các vị Thiền sư, như Thầy Thanh Từ, mới dậy “không kẹt hai bên”.
- “nhị nguyên” (dualisme) là hai nguyên lý, như tiểu ngã/Đại Ngã, chúng sanh/Phật, trời/đất, thân/tâm, v.v., thuộc về bản thể.
Trong nghĩa đó, « bất nhị » (advaita, tất cả là một) là quan điểm của đạo Vedanta, một phong trào phát triển mạnh tại Ấn Độ sau thời đức Phật: Tiểu ngã chính là Đại Ngã, không phải là hai mà là một. Con người chính là vũ trụ, là Chân lý tuyệt đối, cũng như mọi thành phần của vũ trụ.
Trong nhiều bài Kinh Đại Thừa sau Bát Nhã-Trung Quán (Hoa Nghiêm, Lăng Già, Viên Giác, Lăng Nghiêm…), người ta cũng sẽ gặp quan điểm “vạn vật đồng nhất” như vậy. Và dĩ nhiên, quan điểm này mang theo những khái niệm như Chân lý Tuyệt đối, Chân Như, Như Thị, Chân Không Diệu Hữu, Phật tánh, Như Lai tạng, v.v., mà chúng ta đã nói tới.
Nhưng phải nói rõ rằng những khái niệm này không có trong Bát Nhã và Trung Quán. Ngài Long Thọ chủ yếu là một luận sư (logicien) đẩy xa sự suy luận bằng phủ định cho đến cùng. Về bản thể, không những không có hai bên (bất nhị), mà ngay cả sự đồng nhất cũng không có (bất nhất, bất dị). Ngài nói 8 cái phủ định, đi từng cặp một (bất sanh bất diệt, bất nhất bất dị, bất thường bất đoạn, bất khứ bất lai), nhưng còn có muôn vàn cái phủ định khác.
Bất cứ một ý định nào diễn tả, xác định, nắm bắt sự thật cũng bị phủ định. Không có một cái gì có thể nắm bắt được sự thật, vì không có sự thật có thể nắm bắt được. Cuối cùng chỉ có sự im lặng. “Xin cúi đầu đảnh lễ đức Như Lai”…
Các nhà Phật học, như Kalupahana, cũng công nhận rằng triết lý của ngài Long Thọ là phù hợp nhất với giáo lý nguồn gốc của đức Phật. Cũng như các tác giả của bộ Kinh Bát Nhã, từ Duyên khởi ngài luận ra Tánh Không. Nhưng cũng như họ, ngài không bao giờ nói đến Chân Như, Như Thị, Chân Không Diệu Hữu, hay sự hoà nhập của con người với Chân lý tuyệt đối, v.v., như giáo lý Đại Thừa sẽ phát triển sau này.
Dĩ nhiên giáo lý Đại Thừa còn nhiều đặc điểm khác so với giáo lý nguồn gốc, như lý tưởng Bồ Tát, thuyết Tam Thân đức Phật, phương tiện thiện xảo, đức tin, v.v. nhưng những điều đó sẽ kéo chúng ta đi quá xa…
Nói tóm lại, theo tôi không thể trộn lẫn giáo lý nguồn gốc, nguyên thủy với giáo lý phát triển, Đại Thừa. Và ngay cả trong Đại Thừa, cũng không thể đồng hóa tư tưởng Bát Nhã – Trung Quán với những tư tưởng khác.
Đạo Phật nguồn gốc là một phong trào phản kháng chống lại với giáo lý chính thống Bà La Môn, từ Veda đến Vedanta, đắm mình trong bản thể, siêu hình; Đại Thừa cũng là một phong trào phản kháng phát xuất từ Đại Chúng Bộ (Mahasanghika), chống lại với giáo lý chính thống Thượng Toạ Bộ, thúc đẩy bởi nhu cầu siêu hình và sùng tín (bhakti) của quần chúng. Chính vì đó, những quan điểm về bản thể, nhất thể, quay một vòng trở lại. Cũng như ở mọi nơi trên thế giới, con người bị sự “khao khát tuyệt đối” (soif de l’absolu), còn gọi là sự “say cuồng tuyệt đối” (rage de l’absolu), thúc đẩy người ta tìm kiếm một cái tuyệt đối siêu hình… mà chính đức Phật xưa kia đã gạt bỏ!
Trong bài này (tôi xin lỗi là đã quá dài dòng!), xin các anh chị hiểu cho: tôi không muốn bênh vực đạo Phật nguồn gốc hay chỉ trích Đại Thừa. Mỗi con đường có cái hay của nó và thích hợp cho mỗi cá nhân. Không ai đúng, không ai sai. Đúng hay sai là do mình học, do mình tu ra sao, và chỉ có mình mình biết mà thôi...
Tôi chỉ muốn nói là theo tôi, nên học đạo Phật theo quá trình lịch sử của nó, một cách khoa học, gạt bỏ những huyền thoại không có nghĩa lý gì ngoài biểu tượng, những khái niệm mơ hồ, “nói sao cũng được”, không mang lại gì cụ thể.
Điều nguy hại, theo tôi - và đó là điều tôi vẫn tự nhủ - là khi bay bổng trên một đám mây với những khái niệm siêu hình về bản thể mà mình cho rằng thâm thúy, siêu việt nhất của đạo Phật, thì mình có thể quên đi thông điệp chính yếu của đức Phật Thích Ca là: sống bây giờ và tại đây, tu và chuyển tâm theo con đường “giới, định, huệ” để tự mình giải thoát, đồng thời giúp mọi người giải thoát khỏi khổ đau.
Xin thứ lỗi nếu làm phật lòng ai vì những lời nói trên, và xin các bạn cứ thẳng thắn thảo luận phê bình, tôi xin chắp tay đón nhận.
Kính thư,
Nguyên Phước (BS Trịnh Đình Hỷ)
(22/09/2015)

Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2015

Cây Dó Lông (cây An Xoa)

Nhật Trang
Photo by nhattrang

photo by nhattrang

photo by nhattrang

  • photo by nhattrang

photo by nhattrang

photo by nhattrang

photo by nhattrang

photo by nhattrang

photo by nhattrang

photo by nhattrang

Ươm hạt giống thật lâu mới nẩy mầm, cây phát triển chậm


Tham khào thêm
http://nhattrang1997.blogspot.com/2012/12/hoa-rung.html